Có những lý do về kinh tế và cả đặc điểm sinh học của cây mắc ca
khiến nhà đầu tư và chính phủ các nước phát triển như Mỹ và Australia thận trọng.
Có những lý do về kinh tế và cả đặc điểm sinh học của cây mắc ca khiến nhà đầu tư và chính phủ các nước phát triển như Mỹ và Australia thận trọng.
>> Nỗi đau dưa hấu, nỗi niềm mắc ca
Các dự tính của doanh nghiệp, chuyên gia nông nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước được đăng tải trên truyền thông đại chúng nhìn chung thống nhất rằng, mỗi ha mắc ca có thể đem lại sản lượng trung bình 3-4 tấn hạt nguy?
?n v??, giá 3,5-4,5 USD/kg như hiện nay thì người trồng có thể thu được 200-400 triệu đồng/ha.
Với 250,000 ha mắc ca dự kiến theo kế hoạch, VN sẽ đứng đầu thế giới về diện tích trồng mắc ca và doanh thu từ hạt mắc ca chưa qua chế biến theo thời giá hiện tại có thể đạt khoảng 2 tỷ đô la Mỹ. Đó là lý do vì sao báo chí VN gọi mắc ca là “cây tỷ đô” thời gian qua.
Có một câu hỏi VN cần trả lời là: Tại sao những cường quốc như Mỹ, Australia - quê hương của cây mắc ca, cũng chỉ mới phát triển mắc ca thương mại từ vài chục năm nay ?
Và sau vài chục năm, với đầy đủ ưu thế về công nghệ, hạt giống, khí hậu, thổ nhưỡng mà diện tích và sản lượng mắc ca của những quốc gia này không gia tăng mạnh mẽ, nếu quả thật trồng mắc ca có thể thu lợi đến thế?
Cẩn trọng tính toán
Trong 20 năm qua, Mỹ (Hawaii), nhà sản xuất mắc ca lớn nhất thế giới năm 1991, chiếm 57% sản lượng mắc ca thế giới, đã giảm diện tích trồng mắc ca trên 25%, từ 9.106 ha (1991) xuống còn 6.880 ha năm 2012. Sản lượng của Mỹ tuy vậy vẫn ổn định, đạt 26.308 tấn hạt nguy?
?n v?? (NTS) năm 2012, vì năng suất đã tăng trên 50%, đạt bình quân 3,8 tấn/ha so với 2,5 tấn/ha năm 1991.
Cây mắc ca ở Đắk Lắk
Ở Australia, diện tích trồng mắc ca từ 1991-2004
đã tăng gần 3 lần, từ 6.000 ha lên 16.000 năm 2004, rồi ổn định đến nay
với khoảng 17.700 – 18.000 ha, sản lượng đạt 40.000 tấn hạt nguy?
?n v??
năm 2012.
Doanh số cao nhất trong lịch sử đến nay theo giá bán tại
nông trại của Mỹ (Haiwaii) là gần 45 triệu đô la (vụ mùa 1989/1990) và
của Australia khoảng128 triệu (2013).
Nông dân ở Nam Phi, quốc gia
đứng thứ nhất về sản lượng mắc ca hiện nay (43.000 tấn hạt nguy?
?n v??,
diện tích trồng 19.000 ha năm 2014), chỉ bán được hạt mắc ca nguy?
?n v?? ở
mức giá khoảng 1/3-1/2 giá nguy?
?n v?? của Australia.
Điều này cho
thấy bên cạnh sự vui mừng khi tìm thấy một hướng đi triển vọng phát
triển nông nghiệp nước nhà, cũng cần hết sức tránh xu hướng lạc quan
thái quá khi tính toán bài toán kinh tế của tương lai.
Có những lý
do về kinh tế và cả đặc điểm sinh học của cây mắc ca khiến nhà đầu tư
và chính phủ các nước phát triển như Mỹ và Australia hết sức thận trọng.
Thứ
nhất, mắc ca là cây công nghiệp dài ngày, thời gian thu hồi vốn đầu tư
dài: Sổ tay người trồng mắc ca do chính quyền Australia phát hành hướng
dẫn rằng, cây mắc ca có thể bắt đầu ra quả vào năm thứ 4-5, sản lượng
tăng dần và đạt tối đa từ năm thứ 12-15, mặc dù sau đó cây có thể vẫn
còn cho hạt đạt sản lượng thương mại tới năm thứ 40 hay hơn nếu được
chăm sóc thích hợp.
Với các giả thiết ở điều kiện giống và trồng
tốt nhất, mật
độ lý tưởng là 312 cây/ha thì sản lượng năm thứ 6 trung
bình khoảng 600 kg hạt nguy?
?n v??, năm thứ 7 khoảng 1,2 tấn, năm thứ 8
khoảng 1,8 tấn, năm thứ 10 khoảng 3 tấn, từ năm 12-15 đạt 3,5 tấn – 4
tấn.
Chi phí nhìn chung cao hơn thu nhập cho đến năm thứ 8 và chi
phí cộng dồn nhìn chung cao hơn thu nhập cộng dồn ít nhất là đến năm thứ
11. Vì vậy, một số thông tin trong nước cho rằng chỉ sau 5 năm người
dân đã thu hồi vốn cần hết sức cân nhắc.
Thứ hai, mắc ca là loại
cây rất khó tính, có rủi ro mất mùa cao nếu không có hiểu biết đúng và
tuân thủ quy trình kỹ thuật từ khâu chọn địa điểm trồng, chọn giống,
chăm sóc đến khâu thu hoạch.
Trong khi quá lạc quan về khả năng
sinh lợi của cây mắc ca, các phương tiện truyền thông hiện nay đề cập
rất ít tới nội dung quan trọng này, mà tác hại của nó có thể rất lâu dài
và to lớn, phá hủy cả một ý tưởng ban đầu có thể rất tốt.
Vì cây mắc ca rất nhạy cảm với khí hậu, thời tiết (nhiệt
độ, ánh sáng, lượng mưa, gió...) nên rất kén chọn địa điểm trồng.
Báo
cáo của Chính phủ Mỹ có nêu, mắc ca trên thế giới được trồng ở khu vực
giữa 34
độ vĩ tuyến bắc và 30
độ vĩ tuyến nam, trong đó sản xuất thương
mại chủ yếu thuộc khu vực giữa 16
độ vĩ tuyến bắc và 24
độ vĩ tuyến nam,
trồng ở
độ cao dưới 760 mét, vì cây trồng ở
độ cao lớn hơn tăng trưởng
chậm hơn, sản lượng hạt ít hơn và hạt có vỏ dày hơn.
Nhiệt
độ dưới
-2
độ C sẽ khiến cây bị hủy hoại trong vòng vài giờ trong khi nhiệt
độ
quá cao của xứ nhiệt đới cũng làm cây có năng suất thấp. Đây có l?
?? là
sai lầm Trung Quốc đã mắc phải khi ồ ạt trồng 6 triệu cây mắc ca tại Vân
Nam, đạt số lượng cây hiện tại của Australia.
Năm 2014, giám đốc
điều hành Hiệp hội mắc ca Australia Jolyon Burnett đã tế nhị nhận xét về
sai lầm này của Trung Quốc như sau “sản lượng hiện tại rất thấp, nhưng
tôi nghĩ nếu họ có thể giải quyết được một số trong những thách thức họ
đang đối mặt thì đây s?
?? là vùng sản xuất mắc ca quan trọng trong tương
lai...
Họ đang trồng mắc ca ở
độ cao 700-1200 mét, vì thế
độ cao
này là cao hơn rất nhiều so với cây trồng ở Australia. Thời tiết lạnh và
thậm chí có thể có tuyết là điều không ai biết được, thời tiết rất ẩm
ướt và quá u ám. Thứ hai là
độ dốc, cần phải nhìn tận mắt để tin rằng
mọi người ở đây đang trồng cây ở sườn núi, nếu thu hoạch bằng tay thì
cũng có thể, nếu không đặc biệt quan tâm đến hiệu quả”.
Giống cây
cũng là một rủi ro khác: sau khi đầu tư khoảng 10 năm mới có thể khẳng
định. Có tầm quan trọng như thế, nhưng ươm tạo giống và quản l
ý th???
trường cây giống vẫn là một trong những khâu yếu xưa nay của nước ta, dù
nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế và xuất khẩu.
Cần đầu tư bài bản
Sau
20 năm kể từ khi trồng thí điểm cây mắc ca tại Trung tâm nghiên cứu
giống cây rừng, Viện khoa học lâm nghiệp VN ở huyện Ba Vì, Hà Nội, đến
nay Việt Nam đã có từ hơn 2.000 – 5.000 ha, trong đó khoảng 50% cây
giống trồng từ hạt, không có nguồn gốc rõ ràng.
Thử nghiệm của Trung tâm với 2 ha mắc ca trồng từ hạt sau 5 năm gần như toàn bộ diện tích không đậu quả.
Ngoài
ra, cây mắc ca cũng bị tác
động của sâu bệnh như các loại cây trồng
khác, và rủi ro từ sâu bệnh ảnh hưởng tới sản lượng cũng rất lớn.
Báo
cáo của công ty Mauna Loa Macadamia Nut ở Hawaii (Mỹ) cho thấy, công ty
đã mất gần 15% số lượng cây đang cho thu hoạch do bệnh thoái hóa cây
đột ngột (MQD - làm lá úa và cây chết) từ năm 1989-1991.
Thời
tiết hạn hán giữa năm 1990 là nhân tố quan trọng làm giảm 25% sản lượng
mắc ca của Australia năm 1991. Chi phí phòng chống sâu bệnh ở Australia
chiếm khoảng 38% chi phí chăm sóc cây hàng năm, gấp đôi chi phí lao
động.
Chi phí đầu tư ban đầu và hàng năm lớn: Chính vì lý do trên,
để trồng ra hạt mắc ca có giá trị kinh tế cao thì chi phí đầu tư ban
đầu và cả chăm sóc cây hàng năm đến thu hoạch là rất lớn. Chi phí chăm
sóc ở Australia và Mỹ khá ổn định và tương đương nhau trong 2 thập kỷ
qua, từ 4.000-5.000 đô la Mỹ cho 1 trang trại 312 cây/ha hay từ 13-16 đô
la Mỹ/cây.
65% chi phí chăm sóc hàng năm ở Mỹ là chi phí tiền
công lao
động, trong khi chi phí này ở Australia chỉ chiếm 16% vì áp
dụng được cơ giới hóa, còn chi phòng chống sâu bệnh ở cây chiếm 38%.
Khoản
chi lớn khác là chi cho hệ thống tưới nước cho cây mắc ca. Nghiên cứu
của Slaughter và Mulo thời gian từ 2004-2010 ở Australia cho thấy chênh
lệch sản lượng ở những trang trại có đầu tư tưới nước so với trang trại
không đầu tư trung bình là 1,6 tấn hạt nguy?
?n v??/ha, chênh lệch thu nhập
hàng năm trung bình 2.890 đô la Mỹ và giá trị hiện tại ròng NPV đạt
trung bình 31.947 đô la Mỹ, cao hơn gấp đôi so với trang trại không đầu
tư hệ thống tưới (15.529 đô la Mỹ).
Chi phí đầu tư ban đầu để có
20 ha mắc ca lên đến 400.000 đô la Mỹ (có hệ thống tưới) và 300.000 đô
la Mỹ (không có hệ thống tưới), tương đương với xấp xỉ 50-60 đô la
Mỹ/cây, cộng với 120.000 đô la Mỹ đầu tư vào năm thứ 5 khi bắt đầu thu
hoạch.
So với Mỹ, Australia có lợi thế rất lớn vì chi phí lớn
nhất trong sản xuất ở các nước phát triển chính là chi phí lao
động, đây
cũng là lợi thế cạnh tranh lớn nhất của các nước đang phát triển, nhưng
Australia với địa hình trồng mắc ca thuận lợi đã tiết kiệm được chi phí
này nhờ cơ giới hóa.
Vì thế, các nước đang phát triển như Kenya,
Trung Quốc hay Việt Nam khó có thể cạnh tranh được với Australia nếu
muốn sản xuất hạt mắc ca chất lượng cao tương đương, bán với giá cao 3-4
đô la Mỹ/tấn hạt nguy?
?n v?? như chúng ta đang tính toán hiện nay, mà
thiếu quan tâm đầu tư vào máy móc, kỹ thuật công nghệ, nhân lực một cách
bài bản, chuyên nghiệp.
Kenya, cường quốc thế giới về sản lượng
mắc ca đang đứng trước khủng hoảng, theo báo cáo ngành này toàn cầu năm
2014: nơi đây, người dân phải thức đêm canh phòng cây mắc ca khỏi bị kẻ
trộm hái trước kh
i chín, những tên trộm bán hạt này trên thị trường với
giá rẻ mạt, đồng thời cũng khiến người nông dân phải vội vã thu hoạch
hạt bất kể xanh chín.
Đến nỗi, Hiệp hội mắc ca vùng Biashara,
Kenya đang kêu gọ
i chính phủ và các tổ chức ph
i chính phủ thiết lập giá
sàn hạt mắc ca nguy?
?n v?? ở mức 0,58 đô la Mỹ/kg.
Chú ý cầu tiêu dùng
Một
vấn đề phải tính toán đó là cầu có khả năng thanh toán của hạt mắc ca
không lớn như hình dung, mà ngược lại, mắc ca là loại hạt có cầu tiêu
dùng rất nhạy cảm với biến
động thu nhập của người tiêu dùng.
Nghiên
cứu của Cahyono được Chính phủ Mỹ sử dụng cho thấy, hệ số co giãn của
cầu hạt mắc ca theo thu nhập được ước lượng là 4 so với hệ số 0,8 của
hạt hạnh nhân. Vì vậy, có lẽ rất xa xỉ nếu cho rằng phần lớn hạt mắc ca
VN sản xuất được trong tương lai sẽ được tiêu dùng trong nước.
Năm
2013, với thu nhập bình quân đầu người trong khoảng 25.000-45.000 đô la
Mỹ/năm thì tiêu thụ mắc ca bình quân đầu người của Đài Loan, Nhật, Đức
đạt khoảng 20-25 gam. Đó là lý do tại sao Nam Phi xuất khẩu 95% sản
lượng mắc ca hàng năm, tỷ lệ này của Australia là 65-70%.
Trong
vòng 20 năm từ 1990-2014, giá hạt mắc ca nguy?
?n v?? loại tốt dao
động
trong khoảng 1,6 đến 3,5 đô la Mỹ/kg, giá trung bình dài hạn ước tính
2,2-2,6 đô la Mỹ/kg. Tuy nhiên, báo cáo của chính phủ Nam Phi dự báo sẽ
thu hoạch sản lượng gấp đôi hiện nay trong vòng 5-7 năm tới, và Trung
Quốc cũng đã trồng 6 triệu cây mắc ca, nên nếu hiện tại VN bắt đầu triển
khai rộng lớn thì đến thời điểm VN có thể thu hoạch, liệu giá mắc cao
có như chúng ta đang dự tính hiện nay?
Về cơ bản, sự lạc quan của
chúng ta thời gian qua tới từ việc đề cập đến các tính toán chi phí ở
môi trường hoàn hảo mà bỏ qua một số yếu tố có thể xảy ra trên thực tế,
và quan trọng là sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu của VN thường nằm ở phân
khúc thấp nhất trên thị trường quốc tế (một phần lớn cũng do thiếu đầu
tư bài bản chuyên nghiệp và sự dẫn dắt của doanh nghiệp).
TS Nguyễn Lan Hương (Trường Harvard Kennedy)
Tiếp: Mắc ca: 'Người chơ
i chính' là ai?
Hỏi chuyện chủ tịch tỉnh đầu tiên quy hoạch mắc ca / Quảng Trị, Đăk Nông đón đầu cơn sốt mắc ca / Hội thảo trực tuyến về mắc ca
Ding Dong Christmas Bells Link Truy Cập giải trí trực tuyến Nguồn bài viết : DB Trực Tuyến